Thứ Năm, 25 tháng 5, 2017

Lợi và hại của cổ phiếu quỹ


Cổ phiếu quỹ là một loại chứng khoán thuộc sở hữu của công ty phát hành ra nó. Những cổ phiếu này được lưu giữ trong kho của công ty và không phát hành ra thị trường mở. Cũng như các loại cổ phiếu khác, cổ phiếu quỹ có những thuận lợi và bất lợi của riêng nó.


1) LỢI ÍCH:
- Bằng cách gia tăng tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ (dù số lượng không thay đổi), mua lại cổ phiếu trong một số trường hợp cũng là cách để gia tăng quyền kiểm soát của ban điều hành công ty.
- Đem lại lợi ích cho cổ đông khi mà thị giá cổ phiếu được xác định thấp hơn giá trị thực. Trên lý thuyết, việc mua cổ phiếu quỹ làm giảm lượng cổ phiếu lưu hành, từ đó làm tăng EPS, ROE, ROA kể cả khi doanh thu và lợi nhuận không đổi. Song sự tăng trưởng này không được đem lại từ hoạt động kinh doanh chính và không tạo ra giá trị cho cổ đông à thị giá cổ phiếu hấp dẫn hơn trong con mắt nhà đầu tư. 
- Đây cũng là một quyết định tài chính của các doanh nghiệp, Vì sau khi mua cổ phiếu quỹ, doanh nghiệp kinh doanh tốt thì khả năng giá cổ phiếu tăng trưởng là cao. Khi đó doanh nghiệp bán cổ phiếu quỹ, thu lời thì sẽ tăng thặng dư vốn cổ phần. Như vậy cả trước mắt cũng như trong lâu dài, mua cổ phiếu quỹ đem lại lợi ích nhất định cho các cổ đông của doanh nghiệp.

2) NHỮNG MẶT TRÁI
- Chi phí cơ hội của các lượng tiền phải bỏ ra khi mua lại cổ phiếu quỹ, nhất là trong thời kì giá cổ phiếu đang cao, bởi doanh nghiệp sẽ mất đi một nguồn lực đáng kể cho các chương trình đầu tư mới, vào các cơ hội kinh doanh có tiềm năng mang lại lợi nhuận cao hơn trong tương lai. Khi đó, thị trường sẽ nghi ngờ các nhà điều hành đang mất phương hướng, không biết làm gì với lượng tiền đang có. Hệ quả là giá cổ phiếu có thể giảm mạnh ngay sau đó.
- Giam giữ nguồn tiền mặt: Việc mua cổ phiếu quỹ sẽ làm cạn nguồn tiền mặt của công ty, về cơ bản là một công ty đang nắm giữ cổ phiếu của chính mình. Nếu giữ cổ phiếu như vậy, công ty sẽ khó tiếp cận với nguồn tiền mặt và làm cho mọi việc khó hơn về mặt tài chính.
- Thao túng giá cổ phiếu: Một trong những cách phổ biến nhất để đo lường giá trị của một cổ phiếu là tỷ số giá cả/lợi tức. Nhìn vào lịch sử giao dịch của các cổ phiếu có truyền thống doanh nghiệp hay mua cổ phiếu quỹ cho thấy, sau động thái này, giá cổ phiếu không hẳn có sự bứt phá mạnh mẽ, thậm chí, ở nhiều doanh nghiệp, còn có tình trạng công bố rồi để đấy và không thực hiện việc mua vào như đã công bố. Đứng trên góc độ khác, đó là những chiêu trò nhằm đẩy giá cổ phiếu tăng cao hơn.
- Việc mua cổ phiếu quỹ cũng cho thấy doanh nghiệp không ưu tiên sử dụng vốn để đầu tư mở rộng kinh doanh, hay đầu tư công nghệ nâng cao chất lượng. Điều này có thể sẽ giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương lai.

3) Ví dụ thực tế:
Năm 2015, thị trường đã ồn ào với câu chuyện mua cổ phiếu quỹ của Tổng công Khí Việt Nam (GAS), vốn là đại gia về tiền mặt, khi đăng kí mua 10 triệu cổ phiếu quỹ nhưng lại không giữ lời hứa chỉ mua vỏn vẹn 6% số lượng đăng kí nguyên nhân do thủ tục đăng ký có một số vướng mắc nên dẫn đến thời gian được phép giao dịch ngắn, khiến thị trường đồn đoán về kịch bản “làm giá”
Tháng 8/2016, Masan(MSN) đã đăng kí mua 20 triệu cổ phiếu thế nhưng cuối cùng chỉ mua được 9,2 triệu cổ phiếu. Nguyên nhân không mua hết số cổ phiếu đăng ký do giao dịch và giá mua bị giới hạn, lượng thanh khoản thị trường không đủ để đáp ứng.
Tập đoàn FLC, Ông Trịnh Văn Quyết đăng kí mua lần lượt 50 triệu cổ phiếu(Tháng 7/2016), 30 triệu cổ phiếu(T10/2016) thế nhưng chỉ mua được lần lượt 5 triệu cổ phiếu và 15 triệu cổ phiếu
Vinamilk(VNM), SCIC thoái vốn 9% với giá 144, được rất nhiều mong đợi sẽ tạo được sóng nhưng cuối cùng đã không thành công, hàng loạt các nhà đầu tư nhỏ lẻ mua với mức giá cao so với hiện tại.
Những thông tin về việc doanh nghiệp liên tục mua cổ phiếu quỹ được công bố dồn dập sẽ tác động đến tâm lý nhà dầu tư. Nhà đầu tư nên cẩn trọng, tìm hiểu kỹ, phân tích dòng tiền của công ty, xem cơ cấu vốn, các nguồn vốn được dùng, và kế hoạch kinh doanh trong năm,…Vì lẽ thường, công ty mua cổ phiếu quỹ thường có dòng tiền tốt, các khoản vay phải trả (dòng tiền tài trợ) không là áp lực lớn. Dòng tiền hoạt động có khả năng bù đắp được sự sụt giảm của dòng tiền tài trợ.
Nguồn: Kiến thức kinh tế

Chứng khoán phái sinh trước giờ G (5): Cẩn trọng với “con dao hai lưỡi”

Lối đánh “tất tay” trên thị trường cổ phiếu rất không phù hợp với giao dịch Index Futures...

Tài sản ký quỹ là điều tối quan trọng trong việc mở và duy trì vị thế khi giao dịch hợp đồng tương lai chỉ số.

Trong các ví dụ trước, tài sản ký quỹ được lấy đơn giản nhất là bằng tiền mặt. Tuy nhiên theo quy định, tài sản ký quỹ đa dạng hơn, có thể là cổ phiếu niêm yết, trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc…

Trong quá trình nắm giữ vị thế, nhà đầu tư có thể phải bổ sung tài sản ký quỹ để nâng giá trị của tài khoản ký quỹ lên đạt yêu cầu. Nhà đầu tư không nhất thiết phải nộp tiền mặt mà có thể thay thế bằng các tài sản khác được chấp nhận.

Đây là điều cần đặc biệt chú ý vì yếu tố đòn bẩy cao có thể khiến nhà đầu tư giao dịch với quy mô quá lớn, vượt quá khả năng xử ký tài sản ký quỹ, như một “con dao hai lưỡi”.

Khuếch đại cả lãi lẫn lỗ

Một trong những lợi thế lớn nhất của sản phẩm phái sinh nói chung và hợp đồng tương lai chỉ số nói riêng là khả năng sử dụng đòn bẩy rất lớn. Như ở phần trước, một hợp đồng chỉ số VN30-Index có giá trị hàng trăm triệu đồng nhưng nhà đầu tư chỉ cần có vài chục triệu đồng là giao dịch được.

Yếu tố đòn bẩy cao khuếch đại cả lợi nhuận lẫn mức thua lỗ, điều này đã được nhắc đến rất nhiều và tạo ra rủi ro cao ngay cả trên thị trường cổ phiếu. Tuy nhiên với công cụ phái sinh, rủi ro còn cao hơn nhiều vì các vị thế giao dịch được định giá hàng ngày (mark to market) và thanh toán hàng ngày.

Đối với một giao dịch cổ phiếu, nhà đầu tư không may có thể bị lỗ, thậm chí lỗ nặng nhưng vẫn có thể nắm giữ ngày này qua tháng khác để chờ đợi giá phục hồi về mức hòa vốn, thậm chí là có lãi ngược lại. Nhà đầu tư vẫn có thể ngủ ngon với mức lỗ 20-30% nếu như tin tưởng vào triển vọng của doanh nghiệp hay trông đợi những yếu tố cơ bản hỗ trợ.

Đối với giao dịch hợp đồng tương lai chỉ số, diễn biến giá thuần túy dựa vào kỳ vọng và biến động ngắn hạn. Thị trường vẫn có thể suy giảm kể cả khi có những yếu tố cơ bản tích cực. Lối suy nghĩ rằng “tăng trưởng GDP tốt như vậy thì thị trường phải tăng” không phải lúc nào cũng phù hợp với biến động giá của hợp đồng tương lai chỉ số trong tháng hiện tại hoặc tháng kế tiếp.

Do đó việc nắm giữ dài có nguy cơ cực lớn, vì nếu mức lỗ vẫn tiếp diễn, nhà đầu tư sẽ phải bù lỗ ngay T+1 và rủi ro call margin làm cháy tài khoản, ảnh hưởng nghiêm trọng tới các tài sản ký quỹ khác như cổ phiếu đầu tư. Trong khi nền tảng kinh tế cơ bản tích cực chỉ có thể phản ánh vào thị trường trong quý tới, thì tài khoản hôm nay đã cháy khét!

Lối đánh “tất tay” trên thị trường cổ phiếu rất không phù hợp với giao dịch Index Futures, vì nhà đầu tư luôn cần khoản tài chính dự phòng trường hợp giá giảm, dù chỉ một ngày để thỏa mãn yêu cầu ký quỹ duy trì giao dịch.

Không có gì đảm bảo giá hợp đồng tương lai chỉ số sẽ tăng liên tục mà không giảm và chỉ cần một ngày không đủ đảm bảo ký quỹ, các vị thế sẽ bị đóng cưỡng bức, cộng với các khoản thiệt hại khác trong trường hợp phải sử dụng tài sản đảm bảo để bù lỗ.

Mặt khác, rủi ro thanh khoản trên thị trường phái sinh là rất cao vì không phải lúc nào thị trường này cũng có thanh khoản. Nếu thị trường cơ sở rất xấu hoặc xảy ra khủng hoảng, thị trường cơ sở mất hết kỳ vọng và sự sợ hãi bao trùm thì có khả năng thị trường hợp đồng tương lai chỉ có một bên Short.

Mặc dù theo quy định, nhà đầu tư có thể đóng vị thế bằng một giao dịch ngược chiều bất kỳ lúc nào, nhưng lệnh Long/Short đó phải có lệnh đối ứng thì mới khớp được. Do đó yếu tố thanh khoản cao hay thấp tại một thời điểm cũng ảnh hưởng rất lớn đến mức lời/lỗ. Thậm chí nếu không có lệnh đối ứng để đóng vị thế, nhà đầu tư phải nắm giữ hợp đồng đến ngày đáo hạn.

Điều cần lưu ý là ngay cả khi giá hợp đồng tương lai liên tục thay đổi bất lợi, thậm chí khi thị trường hoảng loạn đến mức không có bất kỳ lệnh mua nào và nhà đầu tư không thể đóng được vị thế thì vẫn phải thanh toán các thiệt hại nếu như tài sản ký quỹ không đủ để chi trả sau khi đã bán tài sản ký quỹ đi. Nói cách khác, nhà đầu tư không đơn giản là bỏ của chạy lấy người như trên thị trường cổ phiếu.

Cổ phiếu VN30 mặc nhiên là tài sản ký quỹ

Theo dự thảo về quy chế ký quỹ, thanh toán bù trừ trên thị trường phái sinh, VSD sẽ quy định danh mục cổ phiếu được sử dụng làm tài sản ký quỹ trong từng thời kỳ và danh mục này sẽ thay đổi theo các tiêu chí riêng.

Tuy nhiên một tiêu chí cứng là trong tổng tài sản ký quỹ, lượng tiền mặt luôn phải duy trì ở mức 80%. Nói cách khác, chỉ có 20% giá trị tài sản ký quỹ là có thể được thay thế bằng các tài sản khác, trong đó có cổ phiếu, chứng chỉ quỹ (ngoài trừ chứng chỉ quỹ ETF).

Đối với tài sản là cổ phiếu niêm yết, giá dùng để tính giá trị tương đương tiền sẽ là giá đóng cửa tại ngày tính trừ đi tỷ lệ chiết khấu. Như vậy giá trị của khối lượng cổ phiếu sẽ nhỏ hơn giá trị thực tế theo giá thị trường.

Đối với các cổ phiếu nằm trong rổ VN30, tỷ lệ chiết khấu là 30% và đối với các cổ phiếu khác là 40%. Ngay cả tỷ lệ chiết khấu này cũng có thể được thay đổi nếu VSD thấy cần thiết.

Do hợp đồng tương lại chỉ số dựa trên chỉ số VN30-Index nên mặc nhiên tất cả các cổ phiếu trong rổ VN30 sẽ được phép sử dụng làm tài sản ký quỹ. Đối với các cổ phiếu khác, tiêu chí thanh khoản được đặt lên hàng đầu.

Quá trình xét duyệt cổ phiếu (ngoài rổ VN30) có đạt tiêu chuẩn ký quỹ hay không được tiến hành theo 3 bước:

Bước 1: Chọn 250 cổ phiếu (150 mã niêm yết ở HSX và 100 mã niêm yết ở HNX bao gồm cả các mã chứng khoán trong rổ chỉ số HNX30, VN30) có giá trị giao dịch bình quân phiên lớn nhất trong 12 tháng gần nhất của kỳ đánh giá.

Bước 2: Sắp xếp tổng khối lượng giao dịch mỗi phiên của các mã đã lựa chọn ở bước 1 trong từng tháng theo thứ tự từ cao đến thấp, chọn khối lượng giao dịch ở giữa làm khối lượng trung vị (trong trường hợp có 2 ngày ở giữa thì sẽ lấy khối lượng giao dịch trung bình của 2 ngày này làm khối lượng trung vị).

Bước 3: Thực hiện tính tỷ lệ khối lượng trung vị (R) của mỗi tháng so với khối lượng chứng khoán lưu hành của ngày cuối tháng. Khối lượng chứng khoán lưu hành của ngày cuối tháng xác định theo nguyên tắc: Bằng tổng khối lượng chứng khoán đăng ký, lưu ký trừ đi khối lượng chứng khoán hạn chế chuyển nhượng (số liệu theo dõi trên hệ thống của VSD).

Bước 4: VSD xác định và công bố tỷ lệ R của từng kỳ đánh giá nhưng tối thiểu là 0,02%. Các cổ phiếu có 6/12 tháng có tỷ lệ R< tỷ lệ R do VSD công bố sẽ không thuộc danh mục tài sản ký quỹ. Đối với các mã chứng khoán đã nằm trong danh mục tài sản ký quỹ kỳ công bố trước, có 8/12 tháng có tỷ lệ R< tỷ lệ R do VSD công bố sẽ không thuộc danh mục tài sản ký quỹ của kỳ công bố tiếp theo.

Danh mục cổ phiếu/chứng chỉ quỹ được sử dụng làm tài sản ký quỹ sẽ công bố 6 tháng một lần và không thay đổi trong kỳ.

Như vậy số dư trên tài khoản ký quỹ của nhà đầu tư có thể thay đổi hàng ngày nếu như giá thị trường của cổ phiếu được sử dụng làm tài sản ký quỹ tăng hay giảm. Điều cần lưu ý là việc giá cổ phiếu giảm sẽ làm hụt đi giá trị ký quỹ tổng, nhưng nếu giá cổ phiếu tăng nhiều cũng có thể làm mất tỷ lệ 80/20 (tiền mặt phải chiếm 80%). Quyền lợi của nhà đầu tư đối với cổ phiếu ký quỹ vẫn được đảm bảo.
Nguồn: VnEconomy

Chứng khoán phái sinh trước giờ G (4): “Cơn ác mộng” margin call

Dễ thấy một nghịch lý ở đây là vị thế có lãi, nhưng nhà đầu tư vẫn có thể bị call margin...

Khác biệt lớn nhất trong giao dịch công cụ phái sinh là việc định giá diễn ra hàng ngày cuối mỗi phiên giao dịch.

Mỗi người tham gia một bên trong giao dịch phải chịu trách nhiệm và để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán, tránh thiệt hại, việc đảm bảo số dư ký quỹ trong suốt quá trình nắm giữ vị thế là bắt buộc.

Các loại ký quỹ theo quy định của VSD

Không giống với khái niệm ký quỹ (margin) trong giao dịch cổ phiếu, khoản ký quỹ trong giao dịch hợp đồng tương lai chỉ số là tài sản đảm bảo thanh toán, chứ không phải khoản vay.

Về mặt lý thuyết, có hai loại ký quỹ trong giao dịch phái sinh: Ký quỹ ban đầu và ký quỹ duy trì. Cần lưu ý là một số tài liệu hiện tại mới chỉ mô tả hai mức ký quỹ này theo lý thuyết mà chưa đúng với thực tế đang áp dụng tại VSD.

Theo quy định của VSD, các loại ký quỹ bao gồm:

- Ký quỹ ban đầu (Initial Margin - IM), áp dụng cho các vị thế riêng lẻ (không được ghép cặp để tính ký quỹ song hành).

- Ký quỹ song hành (Spread Margin – SM), áp dụng đối với các cặp vị thế có hệ số tương quan đảm bảo giá trị tối thiểu theo quy định của VSD.

- Ký quỹ biến đổi (Variable Margin - VM), là khoản lỗ/lãi hàng ngày phát sinh từ hoạt động định giá lại theo giá thị trường (mark to market) đối với tất cả vị thế ròng trên tài khoản của nhà đầu tư.

- Ký quỹ thanh toán đáo hạn (IMd), áp dụng đối với các vị thế ròng thực hiện thanh toán chuyển giao vật chất tại thời điểm đáo hạn đối với tài khoản tự động bù trừ (netted) và tất cả các vị thế thực hiện thanh toán chuyển giao vật chất đối với tài khoản tổng (non-netted).

Tuy nhiên, để đảm bảo hiểu rõ các khoản ký quỹ nói trên, trước hết nhà đầu tư phải hiểu về mặt lý thuyết các khoản ký quỹ trong tính toán phái sinh.

Ký quỹ ban đầu là mức tiền mặt/tài sản cần có trước khi nhà đầu tư thực hiện lệnh Long/Short. Khoản ký quỹ này không phải là tiền thanh toán cho lệnh vừa thực hiện, mà là khoản đặt cọc thanh toán ban đầu.

Sau khi mở được một vị thế mới (lệnh được khớp), nhà đầu tư phải quan tâm đến mức ký quỹ duy trì. Đó là số dư tối thiểu phải đảm bảo trong tài khoản trong suốt quá trình nắm giữ vị thế.

Giá trị khoản ký quỹ duy trì không phải là cố định (dù nhà đầu tư không thực hiện mở vị thế khác) mà sẽ thay đổi theo kết quả định giá lại theo giá thị trường đối với các vị thế.

Những khác biệt trong ký quỹ duy trì

Theo lý thuyết, trong quá trình nắm giữ vị thế, nhà đầu tư có thể phải bổ sung ký quỹ nhưng cũng có thể được rút bớt tài sản ra dùng cho việc khác nếu như số dư tăng lên vượt quá tỷ lệ yêu cầu ký quỹ ban đầu. Do việc hạch toán được thực hiện từng ngày nên phần lãi/lỗ đều là thực và thuộc sở hữu của chủ tài khoản.

Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động tính toán của VSD phức tạp hơn nhiều. Ví dụ sau đây sẽ thể hiện biến động của tài khoản và những cảnh báo mà nhà đầu tư có thể gặp phải khi nắm giữ vị thế.

Giả sử, nhà đầu tư có trong tài khoản ký quỹ 10 triệu đồng và muốn mở một vị thế Long với một hợp đồng VN30F1707 lúc đó đang có giá 700 (điểm). Hệ số nhân của hợp đồng là 100.000 đồng.

Theo quy định hiện hành, biên độ dao động tối đa trong một ngày của hợp đồng là +/-7%. Tỷ lệ ký quỹ ban đầu quy định là 10% giá trị hợp đồng. Ngưỡng cảnh báo tối thiểu do VSD quy định là 80% của tổng tài sản ký quỹ.

Với số tiền hiện có trong tài khoản ký quỹ là 10 triệu đồng, nhà đầu tư có thể tính ra lượng vốn cần có để đáp ứng giá trị ký quỹ ban đầu như sau:

Giá trị ký quỹ ban đầu = giá hợp đồng x hệ số nhân x số lượng hợp đồng x (1+biên độ dao động) x tỷ lệ ký quỹ ban đầu x 1/80%.

Với các thông số giao dịch như ở trên, giá trị ký quỹ ban đầu sẽ là: Giá trị ký quỹ ban đầu = 700 x 100.000 x 1 x (1+7%) x 10% x 1/80%.

Có thể tính ngay rằng tỷ lệ nhân (1+7%)x10%x(1/80%) cố định bằng 0.13375. Vì vậy có thể tính đơn giản như sau: Giá trị ký quỹ ban đầu = 700 x 100.000 x 1 x 0.13375 = 9.362.500 đồng.

Có thể thấy giá trị ký quỹ theo cách tính nói trên lớn hơn giá trị ký quỹ được tính theo lý thuyết thông thường (10% của giá trị giao dịch. Cũng với quy mô giao dịch một hợp đồng như ví dụ trên chỉ là 7.030.000 đồng). Đó là do để đảm bảo an toàn và tránh cho nhà đầu tư vượt ngưỡng cảnh báo ngay khi vừa mở vị thế, mức dao động tối đa của giá hợp đồng và ngưỡng cảnh báo tối thiểu được thêm vào làm tăng giá trị ký quỹ so với lý thuyết.

Sau khi đã mở thành công một vị thế Long nói trên, bảng tính sau diễn giải biến động tài khoản ký quỹ cũng như các ứng xử mà nhà đầu tư nắm giữ vị thế này có thể gặp phải.

Bảng tính đối với vị thế Long như sau:

Chứng khoán phái sinh trước giờ G (4): “Cơn ác mộng” margin call 1

Trong bảng tính trên, số dư trên tài khoản ký quỹ ban đầu (trước khi giao dịch) của nhà đầu tư là 10 triệu đồng. Cần lưu ý rằng nhà đầu tư có hai loại tài khoản, một là tài khoản ký quỹ (đang có 10 triệu đồng nói trên) và tài khoản tiền gửi. Số dư trên tài khoản ký quỹ là giá trị tài sản ký quỹ của nhà đầu tư (tiền mặt/cổ phiếu) và không thay đổi trừ khi nhà đầu tư bổ sung hoặc rút bớt. Lãi/lỗ vị thế sẽ được tính toán và bù trừ vào tài khoản tiền gửi để có thể rút ra.

Vì vậy, nhà đầu tư cần đặc biệt quan tâm đến số dư trên tài khoản ký quỹ vì nó liên quan đến tỷ lệ sử dụng ký quỹ. VSD đặt ra ngưỡng cảnh báo theo tỷ lệ sử dụng ký quỹ 80%, 100% và có các hành động tương ứng với các tỷ lệ này.

Chẳng hạn, số dư trên tài khoản ký quỹ ban đầu trước khi giao dịch của nhà đầu tư nói trên là 10 triệu đồng. Ngay khi mở 01 vị thế Long ở mức 700 điểm (ví dụ trên) thì nhà đầu tư đã phải đáp ứng tỷ lệ ký quỹ ban đầu là 9.362.500 đồng. Như vậy, nhà đầu tư đã sử dụng luôn 93,63% giá trị tài khoản ký quỹ (9.362.500/10.000.000*100).

VSD quy định hai mức độ cảnh báo và các hành động tương ứng như sau:

Cảnh báo mức độ 1 khi tỷ lệ sử dụng tài sản ký quỹ đạt tới ngưỡng 80%. Khi đó VSD sẽ gửi thông tin cảnh báo cho thành viên bù trừ để thành viên kiểm soát tỷ lệ ký quỹ của khách hàng chặt chẽ hơn. Cảnh báo mức độ 2 là khi tỷ lệ sử dụng tài sản ký quỹ đạt ngưỡng 90%.

Khi tỷ lệ sử dụng ký quỹ đạt 100%, VSD sẽ gửi thông báo cho sở giao dịch đề nghị tạm ngừng giao dịch đối với tài khoản vi phạm; gửi thông báo cho thành viên bù trừ yêu cầu không cho tài khoản đó mở vị thế mới (trừ giao dịch đối ứng để đóng vị thế) và/hoặc bổ sung ngay tài sản ký quỹ để làm giảm xuống dưới giới hạn 100% trong vòng một ngày làm việc.

Lưu ý, chỉ khi các hành động (đóng vị thế, bổ sung tài sản) khiến tỷ lệ sử dụng tài sản ký quỹ xuống dưới mức cảnh báo cấp 1 thì tình trạng bình thường của tài khoản mới được khôi phục.

Trở lại với ví dụ ban đầu. Ngay sau khi mở vị thế, nhà đầu tư đã sử dụng tới 93,63% tài sản ký quỹ. Do đó cuối ngày T0, tài khoản của nhà đầu tư này đã rơi vào tình trạng cảnh báo cấp độ 1. Tình hình chưa có gì đặc biệt những ngày sau đó (T1 đến T4) do biến động giá của hợp đồng tương lai làm tăng giảm tỷ lệ sử dụng ký quỹ vẫn chỉ nằm trong ngưỡng cảnh báo cấp độ 1, tức là nhà đầu tư không thể mở thêm vị thế mới được.

Tại ngày T4, có thể thấy tỷ lệ sử dụng ký quỹ đã lên tới 98,16% tức là tiềm năng vượt 100% rất cao. Nếu ngày kế tiếp giá hợp đồng tương lai tiếp tục tăng thì chắc chắn nhà đầu tư sẽ bị rơi vào tình trạng cảnh báo cấp độ 2. Khi đó nhà đầu tư cần chuẩn bị sẵn sàng các hành động, hoặc là nạp thêm tài sản để tăng số dư của tài khoản ký quỹ, hoặc thực hiện đóng vị thế chốt lãi.

Đến ngày T5, giá hợp đồng tương lai tăng mạnh và nhà đầu tư có lãi (số dư tài khoản tiền gửi tăng so với ngày hôm trước) nhưng cũng đồng nghĩa với khoản giá trị ký quỹ ban đầu tăng lên theo. Trong khi đó số dư trên tài khoản ký quỹ lại không thay đổi (vì nhà đầu tư vẫn để nguyên 10 triệu đồng) nên tỷ lệ sử dụng ký quỹ vượt mức 100%.

Khi đó nhà đầu tư phải bổ sung tài sản ký quỹ trong tài khoản ký quỹ vượt mức của giá trị ký quỹ duy trì. Cụ thể, tại ngày T5, giá trị ký quỹ duy trì đang là 10.656.125 đồng, và số dư tại tài khoản ký quỹ vẫn là 10 triệu đồng. Nhà đầu tư cần tăng tiền trong tài khoản ký quỹ lên bằng cách nạp tiền mới hoặc chuyển tiền lãi đang có từ tài khoản tiền gửi (được hạch toán lãi hàng ngày) sang tài khoản ký quỹ sao cho số dư vượt 10.656.125 đồng.

Ví dụ, nhà đầu tư quyết định nạp thêm 5 triệu đồng vào tài khoản ký quỹ, làm tăng số dư lên 15 triệu đồng. Ngày T6 tuy giá hợp đồng tiếp tục tăng mạnh và nhà đầu tư có lãi lớn nhưng tỷ lệ sử dụng ký quỹ vẫn chưa tới mức cảnh báo.

Đối với vị thế Short đối ứng với vị thế Long nói trên, tình trạng tài khoản ngược lại. Một đồng tiền lãi của vị thế Long chính bằng một đồng tiền lỗ ở vị thế Short được phản ánh trên tài khoản tiền gửi tương ứng của mỗi bên.

Chứng khoán phái sinh trước giờ G (4): “Cơn ác mộng” margin call 2

Có thể thấy ngay rằng, dù nhà đầu tư đang nắm giữ vị thế Long hay Short thì mỗi khi vị thế sinh lãi, tỷ lệ sử dụng ký quỹ đều tăng lên. Trong trường hợp đó, nhà đầu tư phải chuẩn bị sẵn sàng để tăng giá trị ký quỹ để tiếp tục duy trì vị thế của mình. Nếu không, nhà đầu tư phải sẵn sàng đóng vị thế để chốt lời.

Có lãi, vẫn có thể bị call margin

Dễ thấy một nghịch lý ở đây là vị thế có lãi, nhưng nhà đầu tư vẫn có thể bị call margin. Đó là do sự hạch toán lời lỗ được thực hiện vào tài khoản tiền gửi, độc lập với tài khoản ký quỹ.

Trong giao dịch hợp đồng tương lai, các giao dịch là khoản đặt cược vào một tài sản. Khi giá trị tài sản tăng lên tức là quy mô giao dịch cũng tăng, đồng nghĩa với việc phải tăng khoản đặt cọc để tránh rủi ro thanh toán cho các bên vì khi đó giá trị tài sản có thể biến động mạnh hơn.

Trong cùng một ví dụ với hai vị thế đối nghịch ở trên, khi giá hợp đồng tương lai tăng thì nhà đầu tư Short chịu sức ép lớn hơn và bị call margin sớm hơn, đồng thời thua lỗ trong tài khoản tiền gửi.

Do lời lỗ được hạch toán qua tài khoản tiền gửi và độc lập với tài khoản ký quỹ, nên nhà đầu tư cũng bắt buộc phải duy trì một số dư đảm bảo hạch toán trên tài khoản này. Tài khoản này sẽ được +/- mỗi ngày đúng bằng mức thay đổi điểm số hiện tại với điểm số mở vị thế nhân với hệ số nhân hợp đồng (là 100.000 đồng).

Vì thế nhà đầu tư cần duy trì một lượng tiền mặt thanh toán trên tài khoản này. Nếu số dư trên tài khoản bị hụt mà không đủ để hạch toán hàng ngày, lượng vốn bị thiếu sẽ bị trừ từ tài khoản ký quỹ, càng làm giảm giá trị của tài khoản ký quỹ.
Nguồn: VnEconomy

Chứng khoán phái sinh trước giờ G (3): Kỳ vọng và rủi ro, ai mua, tôi bán

Nhà đầu tư không cần sở hữu hợp đồng nào vẫn có thể thực hiện BÁN được...

Sau khi chuẩn bị đầy đủ các cơ sở cần thiết như mở tài khoản, thu xếp vốn tối thiểu, nhà đầu tư có thể trực tiếp tiến hành giao dịch một hợp đồng tương lai chỉ số VN30-Index.

Làm quen khái niệm mới

Trong giao dịch hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu (Index Futures), các khái niệm mua, bán có chút khác biệt với giao dịch cổ phiếu và có thể gây nhầm lẫn.

Thông thường, khi mua một cổ phiếu, nhà đầu tư bỏ tiền ra để trả cho người bán đúng bằng giá trị cổ phiếu đó đang được chấp nhận trên bảng điện tử. Khi bán, nhà đầu tư đã có sẵn cổ phiếu, mới có thể bán được và thu tiền về. Đó là thị trường giao ngay, “tiền trao cháo múc”.

Nhưng đối với giao dịch Index Futures, nếu nhà đầu tư nghĩ rằng chỉ số VN30-Index sẽ tăng trong tuần tới, tháng tới và tiến hành đặt lệnh mua hoàn toàn mới. Tuy nhiên giao dịch như vậy không hẳn gọi là giao dịch mua - tức là nhà đầu tư trả một khoản tiền tương xứng với giá trị để lấy về một hợp đồng tương lai giống như trên thị trường giao ngay với cổ phiếu.

Khái niệm MUA đối với thị trường tương lai khác với thị trường giao ngay. Nhà đầu tư thực tế không trả tiền để mua, mà chỉ là lấy một khoản tiền theo quy định để “đặt cọc” cho giao dịch.

Khái niệm BÁN đối với giao dịch phái sinh lại khá rắc rối. Thông thường trên thị trường giao ngay, việc bán là khi có một tài sản nào đó đem đi bán để đổi ra tiền mặt - tức là nhà đầu tư chỉ cần có tài sản, không cần tiền là thực hiện hiện được giao dịch.

Trường hợp này là gần đúng đối với giao dịch phái sinh nếu như nhà đầu tư đã có sẵn trong tay một hợp đồng được MUA từ trước, và bây giờ cần BÁN hợp đồng đó đi để chốt lãi.

Điểm chưa gần đúng là thực ra nhà đầu tư chẳng BÁN cái hợp đồng có sẵn như với bán cổ phiếu, mà là thực hiện một lệnh BÁN mới với hợp đồng tương lai cùng kỳ hạn với hợp đồng đang nắm giữ. Trung tâm thanh toán sẽ hiểu rằng nhà đầu tư đang cân bằng vị thế với hợp đồng đang có và tổng vị thế bằng 0, lỗ lãi tiền mặt thu về.

Khái niệm BÁN thứ hai lại hoàn toàn ngược với cách hiểu thông thường. Nếu chưa có trong tay hợp đồng nào để cân bằng vị thế (như nói ở trên) thì việc BÁN hợp đồng mới thực ra lại là đặt cọc với vị thế bán mà không cần có tài sản nào để BÁN cả.

Khái niệm này cũng không giống việc bán khống trên thị trường cổ phiếu. Để bán khống cổ phiếu, nhà đầu tư vẫn cần có cổ phiếu (tài sản) bằng cách vay người khác mới có thể bán được. Đối với hợp đồng tương lai chỉ số, nhà đầu tư không cần sở hữu hợp đồng nào vẫn có thể thực hiện BÁN được. Khái niệm BÁN ở đây hàm ý rằng nhà đầu tư sẽ có lãi nếu chỉ số giảm điểm, nhưng hành động thực tế là đặt cọc cho một vị thế BÁN và vẫn cần phải có tiền (tương ứng tỷ lệ ký quỹ ban đầu).

Và để cho đủ rắc rối, nếu đã có sẵn một hợp đồng từ việc đã đặt cọc một vị thế BÁN nói trên, bây giờ chốt lãi, nhà đầu tư sẽ không BÁN, mà là sẽ MUA vào hợp đồng cùng kỳ hạn.

Vì thế, trong giao dịch phái sinh, cần làm quen với một vài khái niệm đặc thù. Khi nghĩ rằng chỉ số sẽ giảm và muốn kiếm lời khi giá giảm, giao dịch đúng là mở một vị thế Short (go Short) với hành động là BÁN. Với giao dịch này, nhà đầu tư sẽ có lãi khi chỉ số giảm.

Ngược lại, để có lãi khi chỉ số tăng, giao dịch là mở một vị thế Long (go Long) với hành động là MUA. Để chốt lời/cắt lỗ với vị thế đã có thì giao dịch là đóng vị thế (Cover/Close) bằng hành động NGƯỢC với giao dịch trước đó ở hợp đồng có cùng kỳ hạn.

Nếu có ai đó hỏi hôm nay hành động thế nào, câu trả lời là mua/bán có thể gây hiểu nhầm, nhưng nếu câu trả lời là Short/Long/Cover(Close) thì chắc chắn sẽ diễn giải đúng nghĩa.

Giao dịch Index Futures

Tất cả giao dịch với Index Futures trong ngày đầu tiên thị trường mở cửa chắc chắn là các giao dịch mới hoàn toàn, bất kể là Long hay Short.

Giao dịch Index Futures là đặt cược vào biến động chỉ số VN30-Index, nghĩa là phải có hai bên, một bên đặt cược và một bên nhận đặt cược. Vì thế đây là cuộc chơi có tổng bằng 0, một bên lãi sẽ có một bên lỗ tương ứng.

Ví dụ bảng điện hiện tại như sau:

VN30F1706 có ba giá chào bán tốt nhất ở các mức điểm số: 680 (điểm); 680,1; 680,2. Ba mức giá chào mua tốt nhất có các mức điểm số: 679,9; 679,8; 679,7. Nhà đầu tư A quyết định Long 1 hợp đồng ở mức điểm số 680 bằng cách đặt một lệnh MUA.

Công ty chứng khoán thực hiện lệnh Long này sẽ kiểm tra tỷ lệ ký quỹ ban đầu, xem trong tài khoản của nhà đầu tư A có đủ 6,8 triệu đồng (10%) tiền ký quỹ hay không (việc tính ký quỹ chi tiết sẽ được diễn giải trong bài tiếp theo. Ở đây lấy ví dụ đơn giản nhất bằng tiền mặt để hiểu khái niệm).

Nếu điều kiện đáp ứng, lệnh sẽ được chuyển vào hệ thống giao dịch. Nếu phía BÁN có lệnh đối ứng phù hợp, lệnh MUA (Long) này sẽ được khớp tại HNX.

Lệnh tiếp tục được chuyển tới hệ thống đối tác bù trừ trung tâm tại VSD. Hệ thống sẽ kiểm tra tài khoản của nhà đầu tư A, xem trước đó có lệnh Short nào cùng kỳ hạn với hợp đồng vừa Long hay không. Nếu có, lệnh Long sẽ được bù trừ với lệnh Short và đóng vị thế, tính toán lỗ lãi. Nếu không, lệnh Long được ghi nhận.

Lúc này quan hệ giữa người có lệnh Short (ví dụ là B) vừa được khớp với lệnh Long của nhà đầu tư A không còn nữa. VSD sẽ là bên đối tác Long với nhà đầu tư B đồng thời là đối tác Short với nhà đầu tư A (thực hiện thế vị).

VSD sẽ chịu trách nhiệm tính toán lỗ lãi với từng bên, chứ không phải hai nhà đầu tư tính toán lỗ lãi với nhau. Điều này đảm bảo an toàn thanh toán cho các giao dịch.

Giả sử sau đó nhà đầu tư A không giao dịch gì nữa. Sau khi hết phiên giao dịch, VSD sẽ sử dụng giá thanh toán cuối ngày của VN30F1706 (thực ra là điểm số giao dịch) để tính toán mức lãi/lỗ của giao dịch vừa rồi của nhà đầu tư A.

Hiện tại dự kiến có 5 cách tính giá thanh toán cuối ngày tùy theo tình huống các giao dịch có trên thị trường, nhưng với phiên giao dịch có thanh khoản đạt chuẩn thì giá thanh toán cuối ngày sẽ là giá của đợt đóng cửa. Chẳng hạn VN30F1706 có giá đóng cửa được chấp nhận là 678 điểm, như vậy nhà đầu tư A đã bị lỗ 680 - 678 = 2 điểm, tương đương lỗ 200.000 đồng.

VSD sẽ báo cho thành viên bù trừ lấy 200.000 đồng từ tài khoản của nhà đầu tư A chuyển sang tài khoản của nhà đầu tư B.

Ngày hôm sau, giả sử VN30F1706 tăng giá lên mức 685 điểm và nhà đầu tư A muốn chốt lời. Do đã có hợp đồng bằng lệnh Long trước đó, để chốt lời, nhà đầu tư A thực hiện lệnh Short ở cùng hợp đồng nói trên. VSD sẽ thực hiện bù trừ vị thế khi tiếp nhận lệnh khớp thành công và thanh toán mức lãi vào tài khoản nhà đầu tư A.

Lệnh Short của nhà đầu tư A muốn khớp được thì phải có lệnh Long đối ứng trên hệ thống (ví dụ của nhà đầu tư C). Lúc này nhà đầu tư C có quan hệ giao dịch mới với VSD. Quan hệ của nhà đầu tư B (người Short đối ứng ban đầu với nhà đầu tư A) với VSD vẫn duy trì.

Nói tóm lại, quy trình giao dịch diễn ra trong môt hệ thống khá phức tạp với nhiều công đoạn khác nhau. Tuy nhiên nhà đầu tư chỉ cần biết những gì liên quan tới cá nhân, như giao dịch là mới hay nhằm bù trừ vị thế, lượng tiền trong tài khoản có đủ bù trừ cuối ngày hay không, khả năng bị call margin như thế nào.

Mọi vấn đề khác, đặc biệt là tính an toàn trong thanh toán đã có VSD đảm nhiệm. Quá trình theo dõi biến động số dư tài khoản để tính toán mức ký quỹ sẽ được diễn giải trong bài viết kế tiếp.
Nguồn: VnEconomy

Chứng khoán phái sinh trước giờ G (2): Sản phẩm là gì và giao dịch thế nào?

Hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu sẽ là mối quan tâm chủ yếu của tất cả các nhà đầu tư nói chung...

Cụ thể, chỉ số được lựa chọn làm tài sản cơ sở cho hợp đồng tương lai là chỉ số VN30, HNX30, và hợp đồng tương lai trên trái phiếu Chính phủ sẽ sử dụng trái phiếu giả định (synthetic/nominal bond) kỳ hạn 5 năm.

Hợp đồng tương lai trái phiếu Chính phủ hướng đến đối tượng là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, các ngân hàng thương mại, phục vụ chủ yếu cho mục đích phòng hộ rủi ro và dự đoán lãi suất tương lai của thị trường trái phiếu Chính phủ.

Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu sẽ là mối quan tâm chủ yếu của tất cả các nhà đầu tư nói chung, trong đó có nhà đầu tư cá nhân đã và đang đầu tư trên thị trường cổ phiếu cơ sở.

Tại sao chọn chọn các chỉ số cổ phiếu “top”?

Hợp đồng tương lai dựa trên một chỉ số cổ phiếu là sản phẩm phái sinh đơn giản nhất, thường được triển khai đầu tiên ở các thị trường chứng khoán phái sinh tập trung mới ra đời. Đây là một hợp đồng được chuẩn hóa bởi sở giao dịch chứng khoán - ở đây là HNX - dựa trên biến động của một chỉ số cổ phiếu thuộc thị trường cơ sở.

Mặc dù hiện các sở giao dịch đã có nhiều bộ chỉ số, hợp đồng tương lai chỉ số do HNX phát triển lựa chọn chỉ số top, ở đây là HNX30-Index và VN30-Index. Hợp đồng quy định nhiều điều khoản kỹ thuật chi tiết, nhưng trên thực tế, nhà đầu tư không tham gia giao dịch nội dung hợp đồng đó, mà chỉ giao dịch mã số của hợp đồng tương tự như mã số của một cổ phiếu.

Nói theo ngôn ngữ thị trường, việc mua hay bán một hợp đồng tương lai của một chỉ số là nhà đầu tư tham gia đánh cược về biến động của chỉ số đó. Nếu nghĩ rằng chỉ số VN30-Index trong tháng tới sẽ tăng, nhà đầu tư có thể mua một Hợp đồng tương lai với chỉ số này và chờ giá tăng.

Ngược lại, nếu nghĩ rằng chỉ số VN30-Index sắp giảm, nhà đầu tư sẽ bán một hợp đồng tương lai. Ưu điểm là nhà đầu tư dù chưa sở hữu bất kỳ cổ phiếu nào trong rổ cổ phiếu VN30-Index cũng vẫn có thể giao dịch bằng việc tham gia “vị thế” bán hợp đồng tương lai trên chỉ số này.

Chỉ số VN30-Index là một trong hai chỉ số được lựa chọn làm tài sản cơ sở cho hợp đồng tương lai chỉ số (chỉ số còn lại là HNX30-Index). Tuy nhiên trong giai đoạn đầu tiên, để tập trung thanh khoản cho thị trường, các cấp quản lý thị trường hiện cân nhắc việc sẽ chỉ có hợp đồng tương lai với chỉ số VN30-Index được triển khai trước. Sau một thời gian vận hành sẽ xem xét đưa tiếp các sản phẩm khác với nhiều loại hình chỉ số cổ phiếu hơn vào giao dịch.

Trên thị trường hiện có nhiều chỉ số chứng khoán, nhưng việc chọn chỉ số VN30-Index là do chỉ số này đại diện cho các cổ phiếu vốn hóa lớn trên thị trường và có các tiêu chí định lượng về tính thanh khoản, cùng các yếu tố kỹ thuật khác. Ngoài ra chỉ số VN30 đã được điều chỉnh để tính toán dựa trên tỷ lệ cổ phiếu lưu hành tự do có điều chỉnh, đồng thời có giới hạn quy mô vốn hóa tối đa (là 10%) của mỗi cổ phiếu trong rổ.

Nói đơn giản nhất, chỉ số VN30-Index là một trong những chỉ số ít bị méo mó nhất trên thị trường hiện nay.

Một trong những nguy cơ làm tăng rủi ro trong giao dịch hợp đồng tương lai chỉ số là chỉ số đó bị thao túng. Ví dụ một chỉ số tính theo giá trị vốn hóa, dễ bị chi phối bởi số ít các cổ phiếu có vốn hóa lớn, một số giao dịch gây biến động giá lớn sẽ ảnh hưởng tới giá trị của cả hợp đồng tương lai của chỉ số đó.

Chính vì thế, một chỉ số được chọn làm tài sản cơ sở cho hợp đồng tương lai phải ít có rủi ro bị chi phối nhất, để đảm bảo quyền lợi của cả khối nhà đầu tư nhỏ lẻ.

Hợp đồng mẫu của hợp đồng tương lai VN30-Index

Nội dung quan trọng nhất trong hợp đồng mẫu là hệ số nhân.

Để nhà đầu tư có thể giao dịch được một chỉ số thì chỉ số đó phải có giá trị, được quy ra bằng tiền. Hệ số nhân đối với VN30-Index là 100.000 đồng, nghĩa là quy mô một hợp đồng tương lai chỉ số VN30-Index tại mức điểm 680 điểm là  68 triệu đồng (100.000 x 680).

Hệ số nhân sẽ quy định quy mô hợp đồng và các hợp đồng mẫu khác nhau có thể có hệ số nhân khác nhau. Việc chọn hệ số nhân nhỏ là nhằm giúp giảm quy mô giá trị hợp đồng, từ đó giúp nhà đầu tư có quy mô vốn không cần quá lớn cũng có thể giao dịch.

Chẳng hạn năm 1982, hợp đồng tương lai chỉ số S&P500 được giới thiệu có hệ số nhân tới 500 USD, tức là giá trị hợp đồng rất lớn và càng lớn khi chỉ số tăng điểm. Vì thế để khuyến khích các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ giao dịch nhiều hơn, năm 1997 một mẫu hợp đồng khác cũng trên chỉ số S&P 500 được gọi là “E-mini” chỉ có hệ số nhân 50 USD. Bản thân hợp đồng tương lai chỉ số S&P500 gốc cũng giảm hệ số nhân từ 500 USD về 250 USD.

Khi có giá trị của chỉ số, nhà đầu tư có thể tính toán lượng tiền ban đầu cần có để mua một hợp đồng tương lai (tiền ký quỹ ban đầu - initial margin). Việc hợp đồng tương lai chỉ số VN30-Index có giá trị 68 triệu đồng không có nghĩa là nhà đầu tư sẽ phải bỏ ra cả 68 triệu đồng để mua một hợp đồng. Quy định tiền ký quỹ ban đầu chỉ là 10% giá trị hợp đồng, nghĩa là nhà đầu tư chỉ phải bỏ ra ban đầu mức ký quỹ với giá trị 6,8 triệu đồng (tiền ký quỹ = tỷ lệ ký quỹ x hệ số nhân x giá trị chỉ số x số lượng hợp đồng = 10% x 100.000 đ x 680 điểm x 01 hợp đồng = 6,8 triệu đ) là đã mua được một hợp đồng.

Bước giá dao động tối thiểu của hợp đồng tương lai chỉ số VN30-Index là 0,1 điểm chỉ số. Bước giá này cũng có ý nghĩa tương tự bước giá giao dịch cổ phiếu, là mức thay đổi giá đặt lệnh tối thiểu.

Ví dụ: VN30-Index hiện có điểm số 680 điểm, nhà đầu tư có thể đặt lệnh ở các mức điểm số: 680,1 điểm, 680,2 điểm, 679,9 điểm và tương ứng là lượng tiền cần có để mua một hợp đồng tại bước giá đó.

Phương thức giao dịch của hợp đồng tương lai cũng tương tự như với cổ phiếu hiện tại, có các hình thức lệnh giới hạn, lệnh thị trường, các lệnh điều kiện, và các phiên đóng cửa mở cửa, khớp lệnh liên tục. Giá tham chiếu cũng là giá đóng cửa của ngày giao dịch liền trước, tương tự cổ phiếu.

Ngày giao dịch cuối cùng của một hợp đồng tương lai được ấn định là ngày thứ năm thứ 3 của tháng đáo hạn. Thời gian thị trường phái sinh mở cửa sẽ sớm hơn thị trường cổ phiếu 15 phút, nhưng kết thúc cùng giờ.

Mã hợp đồng và các tháng hợp đồng

Cũng giống như một cổ phiếu, HNX quy định mã của một hợp đồng tương lai chỉ số theo quy tắc nhất định và chứa đựng thông tin về hợp đồng đó.

Ví dụ, hợp đồng có mã VN30F1705 bao gồm các thông tin: “VN30F” là Hợp đồng tương lai của chỉ số VN30 (F là viết tắt của Futures). “17” là năm 2017 và “05” là tháng đáo hạn của hợp đồng. Việc xếp năm đáo hạn lên trước tháng đáo hạn để nhằm mục đích thuận lợi cho thống kê.

Hiện tại cùng một lúc sẽ có 4 "tháng” hợp đồng (contract months) được giao dịch với chỉ số VN30-Index: hợp đồng tương lai cho tháng hiện tại; hợp đồng tương lai cho tháng kế tiếp; hợp đồng tương lai cuối quý gần nhất; hợp đồng tương lai cuối quý tiếp theo.

Ví dụ, hợp đồng tương lai có mã số VN30F1706 là hợp đồng cho tháng hiện tại sẽ đáo hạn vào tháng 6/2017. Bên cạnh đó nhà đầu tư có thể giao dịch hợp đồng có mã số VN30F1707 là hợp đồng sẽ đáo hạn vào tháng kế tiếp (tháng 7/2017). Hợp đồng có mã số VN30F1709 là hợp đồng sẽ đáo hạn vào quý gần nhất (tháng 9/2017 - quý 3/2017). Hợp đồng có mã số VN30F1712 là hợp đồng đáo hạn vào quý kế tiếp (tháng 12/2017 - quý 4/2017).

Tại thời điểm thị trường ra mắt trong năm 2017, các bộ tháng hợp đồng thay nhau niêm yết sẽ tạo ra tổ hợp các tháng hợp đồng như sau:

Chứng khoán phái sinh trước giờ G (2): Sản phẩm là gì và giao dịch thế nào? 1

Việc có nhiều hợp đồng tương lai đáo hạn các tháng khác nhau trên cùng một chỉ số giao dịch đồng thời là nhằm đa dạng hóa thời gian nắm giữ phù hợp với từng nhu cầu đầu tư. Các hợp đồng kỳ hạn ngắn (tháng hiện tại, tháng kế tiếp) phù hợp với mục đích đầu cơ ngắn hạn và nhà đầu tư không bị đọng vốn quá lâu trong trường hợp phải giữ hợp đồng đến ngày đáo hạn. Các hợp đồng dài hạn hơn phù hợp với các giao dịch phòng vệ.

Chuẩn bị giao dịch

Để tham gia giao dịch trên thị trường phái sinh, đầu tiên nhà đầu tư phải mở một tài khoản mới để giao dịch riêng cho hợp đồng tương lai chỉ số. Nếu nhà đầu tư đã có sẵn tài khoản giao dịch chứng khoán thì chỉ cần mở thêm một tiểu tài khoản mới, nằm trong tài khoản sẵn có, cho giao dịch phái sinh. Nếu nhà đầu tư chưa có tài khoản giao dịch chứng khoán thì phải mở tài khoản mới.

Đối với tài khoản giao dịch hợp đồng tương lai, nhà đầu tư có thể mở tại bất kỳ công ty chứng khoán nào đủ điều kiện cung cấp dịch vụ giao dịch chứng khoán phái sinh (thành viên giao dịch). Tuy nhiên hiện chỉ có một số công ty chứng khoán đủ điều kiện làm thành viên bù trừ nên các công ty chứng khoán không phải thành viên bù trừ (mà khách hàng mở tài khoản giao dịch) sẽ phải mở cho khách hàng một tài khoản ký quỹ tại công ty chứng khoán là thành viên bù trừ.

Theo thông tin mới nhất, hiện có 8 công ty chứng khoán vừa là thành viên giao dịch, vừa là thành viên bù trừ, bao gồm: SSI, HSC, VnDirect, MBS, VCBS, BSC, VCSC, VPBS.

Nhà đầu tư có thể yên tâm rằng lệnh giao dịch của mình tại công ty chứng khoán không phải thành viên bù trừ vẫn được thực hiện chuyển vào hệ thống giao dịch của sàn giao dịch chứng khoán phái sinh một cách bình thường với tốc độ nhanh nhất nhờ kết nối từ công ty chứng khoán là thành viên giao dịch với hệ thống giao dịch của Sở.

Ngay sau khi khớp lệnh trên hệ thống giao dịch của sở, kết quả được chuyển ngay sang hệ thống bù trừ của VSD (theo thời gian thực - realtime) không cần chờ tới cuối ngày giao dịch mới kết chuyển sang VSD như thị trường cổ phiếu, và không cần thông qua thành viên bù trừ.

Vì vậy khi giao dịch, đường đi của lệnh ở các công ty chứng khoán sẽ không có sự phân biệt là thành viên bù trừ hay không. Tuy nhiên việc quản lý tài khoản ký quỹ, thực hiện thanh toán bù trừ vẫn phải do công ty chứng khoán là thành viên bù trừ thực hiện.
 
Đối với trường hợp nhà đầu tư là khách hàng tại một công ty chứng khoán không phải là thành viên giao dịch (hiện tại có 27 công ty chứng khoán đủ điều kiện là thành viên giao dịch trên thị trường phái sinh theo quy định về vốn tối thiểu tại Nghị định 42) thì chỉ có thể giao dịch thông qua tài khoản tổng mà công ty đó mở tại công ty chứng khoán là thành viên giao dịch và ủy thác giao dịch. Điều này cũng tương tự đối với các quỹ đầu tư và công ty chứng khoán thành lập ở nước ngoài.
Nguồn: Vneconomy