Thứ Tư, 4 tháng 1, 2017

Kinh tế học phúc lợi (Welfare economics)

Bộ môn kinh tế học nghiên cứu những vấn đề tiêu chuẩn, cách thức hoạt động kinh tế để làm cho phúc lợi kinh tế đạt giá trị tối đa. Mục đích của nó không phải mô tả sự hoạt động của nền kinh tế mà là đánh giá về mặt giá trị trên các mặt: hoạt động, sản xuất, tổ chức sản xuất, phân phối của cải và thu nhập, hiện tại và tương lai để có phúc lợi tối đa. Kinh tế học phúc lợi lấy phúc lợi kinh tế của mọi thành viên trong xã hội làm đối tượng nghiên cứu. Có hai giai đoạn: Kinh tế học phúc lợi cũ, đại biểu là Pigu (A. C. Pigou) nhà kinh tế học người Anh, ra đời từ 1920; và Kinh tế học phúc lợi mới xuất hiện từ những năm 30 thế kỉ 20. Phúc lợi là hiệu quả sử dụng đạt được hoặc mức thoả mãn của cá nhân có thể so sánh được về số lượng giữa các cá nhân. Phúc lợi kinh tế là bộ phận có thể tính toán được bằng tiền. Kinh tế học phúc lợi mới coi hiệu quả sử dụng các loại sản phẩm lớn hay nhỏ không thể biểu hiện bằng số lượng mà bằng số thứ tự: thứ nhất, thứ hai...; mức độ hiệu quả sử dụng được biểu hiện thông qua mức độ thị hiếu và thu nhập của mỗi người đối với sản phẩm, làm cho phúc lợi thu được đạt giá trị tối đa, phúc lợi xã hội nói chung cũng đạt mức tối đa. Các nhà kinh tế cổ điển coi tiện ích là thước đo sự thoả mãn của người tiêu thụ, song mỗi người có những ưu tiên tiện ích khác nhau; cho nên phải tìm ra những đánh giá phúc lợi tăng hay giảm, mà không so sánh tiện ích giữa các cá nhân. Tiêu chuẩn đơn giản mà Paretô V. (V. Pareto) đưa ra là bất cứ sự phân bố tài nguyên nào làm thay đổi hàng hoá được sản xuất hay sự phân phối chúng cho người tiêu thụ, có thể xem là sự cải tiến, nếu nó không làm cho một số người khá lên mà một số người khác lại kém đi. Theo thuyết Kinh tế học phúc lợi, chất lượng của hoạt động kinh tế được xem xét dưới góc độ bình đẳng và hiệu quả. Có sự bình đẳng theo chiều ngang khi có sự đối xử giống nhau đối với những người giống nhau. Có sự bình đẳng theo chiều dọc khi sự đối xử khác nhau đối với những người khác nhau nhằm làm giảm hậu quả của những sự khác biệt bẩm sinh. Để tính được hiệu quả kinh tế và chất lượng đời sống, người ta sử dụng một thước đo gọi là "phúc lợi kinh tế ròng". Người ta tìm cách đánh giá tổng sản phẩm quốc dân một cách chính xác hơn bằng cách sửa chữa những nhược điểm trong cách tính tổng sản phẩm quốc dân (GNP) như loại trừ những khoản quan trọng của tiêu dùng "thực sự" (như thời giờ nhàn rỗi) và bao gồm nhiều khoản không phải là tiêu dùng (như quốc phòng, những khoản chi tiêu cần thiết khác đáng tiếc ...). Thước đo phúc lợi kinh tế ròng tính cả các nhân tố tác động bên ngoài đến đời sống và GNP. Phương pháp học Kinh tế học phúc lợi khá phức tạp, song nền kinh tế phúc lợi đang gia tăng nên cần đánh giá những thay đổi kinh tế, đặc biệt là những vấn đề gây ô nhiễm môi trường, làm lợi cho một số người mà làm hại đến nhiều người khác. Nguyên tắc mà một số chính phủ đề ra "kẻ gây ô nhiễm phải trả đền bù" để khắc phục hậu quả, là một phương pháp để so sánh tiện ích giữa các cá nhân, can thiệp vào thị trường theo thuyết Kinh tế học phúc lợi. Thuyết Kinh tế học phúc lợi mang bản chất kinh tế học tư sản, xem nhẹ và che đậy sự khác biệt về phúc lợi giữa các tầng lớp, giai cấp, không tính đến tính chất xã hội của các chế độ kinh tế khác nhau.
Nguồn: http://pedia.vietstock.vn/terms/termdetail.aspx?id=1205

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét