Thứ Hai, 7 tháng 5, 2018

Lãi suất Argentina chạm mức 40% vì nhà đầu tư tháo chạy sang Mỹ

Gần 3 ngàn tỷ USD đã được rót vào các quỹ tài sản có thu nhập cố định và quỹ ETF của Mỹ. Nhà đầu tư đang tháo chạy sang Mỹ – một diễn biến đang tạo ra nỗi đau thật sự một số thị trường mới nổi.

Một bằng chứng về lãi suất tương đối tác động đến cung cầu ngoại tệ (USD) trên thị trường.

Lãi suất thị trường chạm mốc 40% tại Argentina trong ngày thứ Sáu (04/05), sau khi đà sụt giảm của đồng nội tệ đã buộc Ngân hàng Trung ương Argentina phải thực hiện đợt nâng lãi suất lần thứ 3 chỉ sau 8 ngày. Ngoài ra, đồng Lira của Thổ Nhĩ Kỳ cũng lao dốc mạnh trong vài ngày gần đây khi nhà đầu tư bắt đầu bán đổ bán tháo đồng tiền này.
Dòng tiền chuyển hướng sang Mỹ cũng tạo ra cú sốc đến các thị trường. Ngân hàng Thụy Điển SEB cho biết rằng chỉ số thị trường mới nổi của quốc gia này đã rớt 10% so với thời điểm tháng 1/2018.
Nhà đầu tư cảm thấy cuốn hút bởi thị trường Mỹ, trong bối cảnh lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ ngày càng tăng và đồng USD trở lại mạnh mẽ. Lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm đã nhảy vọt trong năm nay từ 2.4% lên 3%, còn đồng USD leo dốc 4% so với các đồng tiền chủ chốt khác so với thời điểm giữa tháng 4/2018.
Dữ liệu từ Morningstar cho thấy gần 3 ngàn tỷ USD đã được rót vào các quỹ tài sản có thu nhập cố định và quỹ ETF của Mỹ, mức hút vốn mạnh nhất trong 5 năm.
“Đà tăng mạnh của đồng bạc xanh đã châm ngòi cho làn sóng bán tháo cổ phiếu thị trường mới nổi ở mọi khu vực”, các chiến lược gia tiền tệ tại Bank of America Merrill Lynch (BoAML), cho hay. BoAML cho biết các quỹ đầu cơ, nhà quản lý tài sản và nhà đầu tư khác đã chen nhau đổ vốn vào đồng USD trong 2 tuần qua.
Dù vậy, diễn biến trên vẫn chưa tới mức kịch tính như hiện tượng "taper tantrum” năm 2013, khi nhà đầu tư vốn đang lo lắng đã tháo chạy nhanh chóng ra khỏi các thị trường đang phát triển, Athanasios Vamvakidis, Chiến lược gia tiền tệ tại BoAML, cho hay. Sự kiện “taper tantrum” vẫn còn là nỗi ám ảnh đối với nhiều nhà đầu tư trên thị trường. Đồng tiền của các quốc gia thị trường mới nổi đã biến động mạnh sau khi Chủ tịch Fed khi đó là Ben Bernanke cho biết trong tháng 5/2013 rằng Fed sẽ bắt đầu giảm bớt quy mô chương trình mua trái phiếu.
“Chúng tôi không nhận thấy sự điều chỉnh gây rối loạn nào”, ông cho hay, đồng thời lưu ý rằng nhiều thị trường mới nổi trên toàn cầu đang trong vị thế mạnh hơn so với 5 năm về trước – thời điểm xảy ra hiện tượng taper tantrum.
Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ được cho là những quốc gia dễ bị tổn thương nhất.
Cả hai nền kinh tế này hiện đang có thâm hụt tài khoản vãng lai lớn, hay nói cách khác họ đang chi nhiều hơn cho nhập khẩu hơn là lượng tiền có được từ xuất khẩu. Nhà đầu tư đang lo ngại về khả năng tạo tiền để trả hết nợ trong những lúc khó khăn.
Ở Argentina, lãi suất thị trường ở mức 27.25% trước nhiều đợt nâng lãi suất nhanh chóng. Đồng Peso của Argentina lao dốc 15% so với đồng USD trong năm 2018, và Ngân hàng Trung ương nước này đang nỗ lực ngăn chặn đồng nội tệ giảm thêm.
“Bất ngờ thực sự ở đây là mọi thứ dường như trở nên căng thẳng rất nhanh chóng và đột ngột”, Edward Glossop, Chuyên gia kinh tế Mỹ Latinh tại Capital Economics, cho biết trong một báo cáo nghiên cứu trong ngày thứ Năm (03/05).
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, đồng Lira đã sụt 11% so với đồng bạc xanh trong năm 2018, và chỉ số chứng khoán chuẩn của quốc gia này cũng trượt dốc 11% trong cùng kỳ.
Jameel Ahmad, Trưởng Bộ phận Chiến lược Tiền tệ tại FXTM, cho hay tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai ngày càng cao, lạm phát cao và rủi ro chính trị có thể đã khiến nhà đầu tư sợ hãi và né xa đồng Lira.
Nguồn: Vũ Hạo (Theo CNNMoney); Vietstock.vn


Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2018

Khi nào đồng Dollar sụp đổ?

Bài viết từ 2016, xin đăng lại để mọi người có góc nhìn rõ hơn về kinh tế, và có đánh giá về kinh tế VN hiện nay.
____________________________________________________________

Trong cuộc khủng hoảng Ukraine, để khuất phục Nga, Mỹ và phương Tây tiến hành một cuộc chiến tiền tệ hòng làm sụp đổ nền kinh tế Nga bằng đòn USD-dầu mỏ. Đó là dùng sức mạnh toàn cầu của đồng USD kết hợp cùng những “cá mập tài chính” làm mất giá đồng Ruble, đồng thời giảm giá dầu tối đa để đánh vào nguồn ngân sách chính của doanh thu xuất khẩu và nguồn chính bổ sung vàng dự trữ của Nga.

Phải công nhận, đây là đòn hiểm, miếng võ “gia truyền” của Mỹ-phương Tây. Nói là “gia truyền” vì trước đây chính quyền của Tổng thống R.Reagan đã dùng và đã có hiệu nghiệm lớn khi hạ “knock out” Liên Xô, không những thế, sức mạnh và nguy hiểm của nó ngày nay còn khủng khiếp hơn khi đồng USD của Mỹ đang trở thành chúa tể thế giới và trong bản thân nước Nga đang tồn tại những “cá mập tài chính”.
Hiệu quả của đòn đánh bất ngờ này là sự thảm bại thê thảm của đồng ruble Nga. Ngày 16/12 được coi là “ngày thứ 3 đen tối” khi đồng Ruble giảm tới 10% và khiến Ngân hàng trung ương Nga quyết định tăng ngay lãi suất lên đến 17%/năm nhưng vẫn không ngăn được tình trang mất kiểm soát. Cùng với giá dầu giảm kỷ lục, đã khiến cho giới quan sát cảm nhận được khủng hoảng kinh tế Nga đến hồi trầm trọng.
Tuy nhiên, ngày 18/12, Putin trong cuộc họp với hơn 1200 phóng viên báo chí vẫn tươi cười và cho rằng: “Nền kinh tế Nga như hiện nay thì chỉ chừng 25-30% là do Mỹ-EU cấm vận và giá dầu giảm”. Vậy còn 70% là tại đâu? Có liên quan gì đến “những cá mập tài chính”?
1- Doanh vụ chưa từng có trong lịch sử thị trường tài chính (!)
“Trước đây, một phần cổ phiếu của các công ty năng lượng thuộc về các nhà đầu tư nước ngoài (người Mỹ và EU) - điều này có nghĩa rằng gần một nửa doanh thu không rơi vào ngân khố Nga mà vào các tài khoản những “cá mập tài chính" của châu Âu, Mỹ.

Khi Mỹ-phương Tây ra đòn, đồng ruble bất ngờ giảm sút, nhưng ngân hàng trung ương không làm gì được để duy trì tỷ giá đồng ruble, xuất hiện những tin đồn đại rằng Nga không có dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá đồng ruble. Những tin đồn này và tuyên bố của Putin rằng ông sẵn sàng và sẽ bảo vệ người dân sử dụng tiếng Nga ở Ucraina đã đưa đến sự giảm sút lớn giá cổ phần của các công ty năng lượng Nga và "những cá mập tài chính" bắt đầu bán cổ phần khi chúng hoàn toàn chưa mất giá trị thực.
Putin đã chờ suốt một tuần, và khi giá đã sụt dưới ngưỡng, ông đã bất ngờ ra lệnh lập tức mua sạch tất cả các cổ phần của cả người Mỹ và người châu Âu. Khi "những cá mập tài chính" nhận thức được rằng họ bị đánh lừa thì đã muộn, các cổ phần đã nằm trong tay Nga và bây giờ Nga kiếm được hơn 20 tỷ dollars.
Nhưng vấn đề quan trọng hơn nhiều 20 tỷ dollars là người Nga đã lấy lại hơn 30% cổ phần, làm chủ hoàn toàn các công ty của mình và bây giờ doanh thu từ dầu mỏ và khí đốt sẽ không chạy ra nước ngoài, mà sẽ ở lại Nga, giá trị đồng ruble tự thân tăng lên và không cần chi dự trữ vàng ngoại tệ để duy trì nó, còn những "cá mập tài chính" của châu Âu, chỉ trong vài phút họ đã bị mua sạch các cổ phần và không còn doanh thu từ dầu mỏ và khí đốt”. (theo Kichbu)

Một doanh vụ siêu kinh điển như…trong phim Mỹ, khiến chúng ta chưa tin đó là sự thật. Tuy nhiên, doanh vụ tiếp theo của Nga sau đây là hiện thực.
2- Dùng vàng để triệt tiêu sự thống trị của dollars
Đã đến thời dollars phải chia xẻ quyền lực?
Trong thế giới tài chính, vàng được coi như antidoollars (kháng dollars), nghĩa là trong giao dịch, dự trữ ngân khố thì chỉ có vàng mới có giá trị thách thức được sức mạnh của dollars. Vàng, có thể và duy nhất hiện nay, thay thế được dollars để trở thành phương tiện thanh toán cuối cùng và tích lũy tài sản.

Nhưng là quốc gia bá chủ thế giới, Mỹ buộc thế giới phải coi tờ dollars của Mỹ là thứ giao dịch mạnh nhất, có giá trị nhất và thực tế, với một nền kinh tế hàng đầu thế giới, dollars của Mỹ có sức mạnh như hiện nay là tất yếu. Và đương nhiên, để bảo vệ quyền thống trị của dollars trên thị trường tiền tệ toàn cầu, Mỹ có những chính sách, luật, để “đàn áp” buộc giá trị vàng phụ thuộc vào dollars tức phụ thuộc vào sự điều chỉnh của Mỹ.
Năm 1971, Tổng thống Mỹ R.Nixon ra lệnh đóng “cửa sổ vàng”, chấm dứt việc trao đổi tự do vàng với dollars.
Năm 2014 khủng hoảng Ukraine, Mỹ-phương Tây, bằng các nổ lực và nguồn lực của mình đã can thiệp vào giá dầu và vàng để làm tăng sức mạnh của dollars nhằm đánh sập nền kinh tế Nga. Tổng thống Nga V. Putin lập tức mở “cửa sổ vàng” bắt đầu trao đổi tự do giữa vàng và dollars mà không cần “xin phép Mỹ”.
Thứ nhất, về xuất khẩu. Nga không coi dollars là phương tiện thanh toán cuối cùng, không coi dollars là nguồn tích lũy chính mà thay vào đó là VÀNG. Tiền dollars thu được từ bán dầu, khí đốt…cho phương Tây đều được Nga quy ra vàng và biến thành vàng ngay và luôn.
Điều thú vị, trớ trêu ở đây là Mỹ-phương Tây mua hàng của Nga phải thanh toán bằng dollars, mà giá trị thực của dollars đã được Mỹ-phương Tây đẩy lên cao để giảm giá dầu và vàng (giả tạo), trong khi đó, Nga thì sử dụng tiền dollars thu được này để mua ngay vàng với cái giá thấp giả tạo đó.
Rốt cuộc, “Nga đã đưa Mỹ-phương Tây vào vị trí của một con rắn, mạnh mẽ và siêng năng nuốt đuôi của chính mình”. Đây là lời bình mà tôi cho rằng hay nhất trong năm bởi Golbal Research thay vì như “tự ghè đá vào chân mình”, “gậy ông lại đập lưng ông”…
Chúng ta còn nhớ, vào những năm 70-80, Nhật đã mua rất nhiều tài sản ở Mỹ, kể cả trái phiếu chính phủ, vì Nhật có thặng dư mậu dịch lớn với Mỹ giống như Trung Quốc bây giờ. Thế rồi năm 1985 Mỹ đã buộc Nhật phải ký vào Plaza Accord để đồng yen lên giá hơn 50% so với đồng USD trong hai năm sau đó. Điều này tương đương với tất cả các khoản đầu tư trước đây của Nhật vào Mỹ bị mất giá hơn một nửa, cũng có nghĩa là Mỹ đã trắng trợn “quịt” 50% số nợ với Nhật.
Mỹ tuy chưa làm được điều này với Trung Quốc nhưng hơn 3000 tỷ dollars trái phiếu sẽ bị FED thao tác “bốc hơi” lúc nào là chuyện dễ như trở bàn tay. Trung Quốc thừa biết nhưng vì mục tiêu tăng trưởng nên buộc phải chấp nhận “lót tay”, chấp nhận có thể bị “quỵt nợ” ,“cố đấm ăn xôi”mà thôi.
Rõ ràng là Trung Quốc và Nhật Bản đã đem của cải, tài nguyên của mình đổi lấy những tờ dollars của Mỹ, do Mỹ in và phát hành, nhưng Nga thì không, Nga đem những thứ đó để đổi lấy vàng. Đây là những con số nói lên tất cả: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho biết dự trữ vàng của Liên bang Nga trong tháng 11 năm nay đã tăng thêm 19 tấn, đạt con số 1.187,5 tấn.
Đây là chỉ số dự trữ vàng cao nhất của nước này trong 20 năm qua. Nga đã nhập khẩu vàng suốt 8 tháng nay để tận dụng mức giá thấp. Trong quý 3 năm nay, khi giá vàng đã giảm 1,9%, tất cả ngân hàng trên thế giới mua vào 93 tấn thì Nga chiếm một con số kinh ngạc là 55 tấn.
Thứ hai là về thanh toán nhập khẩu. Nga tuyên bố thanh toán bằng vàng được quy đổi theo dollars. Tuyên bố này gửi đến các nước BRICS và Trung Quốc hưởng ứng nhiệt liệt. Ngoài ra, Trung Quốc còn tuyên bố “Dừng việc tăng dự trữ quốc gia bằng đồng dollars”. Điều này có nghĩa là cũng như Nga, vẫn chấp nhận lấy dollars làm phương tiện trung gian thanh toán hàng hóa, nhưng sau đó sẽ loại bỏ nó bằng một thứ khác trong cơ cấu dự trữ quốc gia.
Có thể nói quan hệ Nga-Trung được coi là thành công nhất trong vụ hạn chế, tiến tới triệt tiêu sự bá chủ của đồng dollars mà Trung Quốc ấp ủ từ lâu. Hàng hóa của Trung Quốc và năng lượng của Nga được thanh toán cuối cùng bằng vàng. Trong cuộc chơi này, trong rổ tiền tiền tệ của nhóm nước BRICS sẽ không có sự xuất hiện của đồng dollars.
Châu Âu phải mua năng lượng của Nga bằng vàng và mua hàng hóa của Trung Quốc cũng phải bằng vàng và chắc chắn lúc đó vàng từ nguồn dự trữ của phương Tây sẽ chảy vào kho của các quốc gia BRICS, những quốc gia mà họ không dùng đồng dollars làm phương tiện thanh toán cuối cùng.
Vàng không dễ sản xuất như in ấn dollars, với sự giảm mạnh lượng dự trữ vàng hiện nay, phương Tây chỉ có thể chờ ngày dollars rời khỏi vũ đài lịch sử khi nó không còn là một phương tiện thanh toán, dự trữ cuối cùng cho các quốc gia trên thế giới.
Những gì Nga và Trung Quốc đang làm cùng các nước BRICS đã thực sự thay đổi dần vị thế, vai trò của đồng dollars trong hệ thống tiền tệ toàn cầu.

Khi giá dầu giảm đến mức thấp nhất, Liên Xô lúc đó, đã bán vàng trong kho của mình. Kết quả là Liên Xô bị tan rã. Mỹ-phương Tây lên ngôi, đồng dollars đã trở thành chúa tể thế giới.
Còn bây giờ, khi giá dầu giảm đến mức thấp nhất thì Nga lại mua vàng nhập vào kho của mình. Kết quả sẽ ra sao? Đó sẽ là sự sụp đổ sự bá quyền của dollars-dầu lửa, mô hình thống trị thế giới của Mỹ-phương Tây?

Mỹ và phương Tây sẽ làm gì? Theo truyền thống, để loại bỏ mối đe dọa quyền bá chủ và lợi ích quốc gia, Mỹ-phương Tây sẽ tiến hành lật đổ chế độ Nga-Putin (cách mạng màu) hoặc tấn công bằng quân sự vào Nga, nhưng cả hai cách này xem ra đều không thể.
Mỹ-phương Tây đã nhận thức được mức độ nghiêm trọng và tuyệt vọng trong “cái bẫy vàng” tiền tệ của Putin sau khi đã quá hiểu quy tắc vàng: “Ai có nhiều vàng ra những quy định” và chưa biết làm gì để thoát ra.

Cre: Lê Ngọc Thống (Tổng hợp và bình luận)
Nguồn: Kiến thức kinh tế


Thứ Tư, 18 tháng 4, 2018

Các thuật ngữ cần biết khi tham gia thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam

Chứng khoán phái sinh (CKPS) gồm các dạng cơ bản như hợp đồng kỳ hạn (forwards), hợp đồng tương lai (futures), quyền chọn (options).  Các sản phẩm CKPS sẽ áp dụng trước mắt tại Việt Nam gồm hợp đồng tương lai (HĐTL) chỉ số chứng khoán và HĐTL trái phiếu Chính phủ.
Hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán là HĐTL dựa trên tài sản cơ sở là chỉ số chứng khoán.
Hợp đồng tương lai trái phiếu Chính phủ (TPCP) là HĐTL dựa trên tài sản cơ sở là TPCP hoặc trái phiếu giả định có một số đặc trưng cơ bản của TPCP.
Tài sản cơ sở là chứng khoán và các tài sản khác được sử dụng làm cơ sở để xác định giá trị CKPS. Tài sản cơ sở của hợp đồng tương lai chỉ số là chỉ số chứng khoán do Sở giao dịch chứng khoán thiết kế.
Thị trường giao dịch CKPS là địa điểm, hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch CKPS hoặc để thực hiện bù trừ, thanh toán giao dịch các CKPS.
Đầu tư CKPS là việc mua, bán CKPS niêm yết hoặc thỏa thuận giao dịch hợp đồng CKPS trên thị trường.
Kinh doanh CKPS là việc thực hiện một hoặc một số các hoạt động gồm môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư. Tổ chức kinh doanh CKPS là tổ chức kinh doanh chứng khoán thực hiện một hoặc một số hoạt động kinh doanh CKPS.
Vị thế một CKPS tại một thời điểm là trạng thái giao dịch và khối lượng CKPS còn hiệu lực mà nhà đầu tư đang nắm giữ tính tới thời điểm đó. Nhà đầu tư mua hoặc bán một CKPS, được gọi là mở vị thế mua hoặc mở vị thế bán CKPS đó.
Vị thế mở một CKPS là việc nhà đầu tư đang nắm giữ CKPS còn hiệu lực, chưa được thanh lý hoặc tất toán.
Khối lượng mở (Open Interests) của một CKPS tại một thời điểm là khối lượng CKPS đang còn lưu hành tại thời điểm đó, chưa được thanh lý hoặc chưa được tất toán.
Vị thế ròng một CKPS tại một thời điểm là chênh lệch giữa vị thế mua đã mở và vị thế bán đã mở của CKPS đó tại cùng một thời điểm.
Giới hạn vị thế một CKPS là vị thế ròng tối đa của CKPS đó, hoặc của CKPS đó và các CKPS khác dựa trên cùng một tài sản cơ sở mà nhà đầu tư được quyền nắm giữ tại một thời điểm.
Giới hạn lệnh giao dịch một CKPS là số lượng CKPS tối đa có thể đặt trên một lệnh giao dịch.
Giới hạn lệnh tích lũy một CKPS là số lượng CKPS tối đa trên các lệnh giao dịch đang chờ thực hiện có thể đặt từ một tài khoản giao dịch.
Thành viên giao dịch CKPS là thành viên của SGDCK được thực hiện nghiệp vụ tự doanh và môi giới CKPS.
Tài khoản giao dịch là tài khoản mở tại thành viên giao dịch để thực hiện giao dịch CKPS của khách hàng.
Thành viên giao dịch đặc biệt là ngân hàng thương mại và là thành viên của SGDCK được đầu tư CKPS trên TPCP.
Thành viên tạo lập thị trường là thành viên giao dịch, thành viên giao dịch đặc biệt được thực hiện hoạt động tạo lập thị trường cho một hoặc một số CKPS.
Thành viên bù trừ (TVBT) là công ty chứng khoán (CTCK), ngân hàng thương mại được thực hiện bù trừ, thanh toán giao dịch CKPS.
Thành viên bù trừ chung là thành viên bù trừ được bù trừ, thanh toán giao dịch CKPS của mình, các khách hàng môi giới của mình và cung cấp dịch vụ bù trừ, thanh toán giao dịch CKPS cho các thành viên không bù trừ và khách hàng của các thành viên không bù trừ đó.
Thành viên bù trừ trực tiếp là thành viên bù trừ chỉ được thực hiện bù trừ, thanh toán giao dịch CKPS của mình và các khách hàng môi giới của mình.
Giá tham chiếu là mức giá do SGDCK và được dùng làm cơ sở để xác định giá cao nhất (giá trần), giá thấp nhất (giá sàn) trong ngày giao dịch.
Giá thanh toán (settlement price) là giá khớp lệnh giao dịch HĐTL giữa các nhà đầu tư thông qua hệ thống giao dịch của SGDCK
Giá thanh toán cuối ngày (daily settlement price) là mức giá được xác định cuối ngày giao dịch để tính toán lãi lỗ hàng ngày của các vị thế, được VSD xác định giá dựa trên thông tin giá giao dịch HĐTL do SGDCK cung cấp. Trường hợp giá giao dịch không đáp ứng yêu cầu tính toán, VSD sẽ tính giá lý thuyết để thay thế.
Giá thanh toán cuối cùng (final settlement price) là mức giá được xác định tại ngày giao dịch cuối cùng để xác định nghĩa vụ thanh toán khi thực hiện hợp đồng. Giá thanh toán cuối cùng được VSD xác định theo nguyên tắc đối với HĐTL chỉ số là giá trị đóng cửa của chỉ số cơ sở tại ngày giao dịch cuối cùng, đối với HĐTL TPCP là giá thanh toán cuối ngày của hợp đồng được xác định tại ngày giao dịch cuối cùng.
Thực hiện hợp đồng là việc các bên tham gia giao dịch hợp đồng tương lai thực hiện việc mua hoặc bán tài sản cơ sở hoặc thanh toán khoản chênh lệch giữa giá thanh toán cuối ngày và giá thanh toán, giá thanh toán cuối cùng theo nội dung của hợp đồng và quy chế của VSD.
Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc chứng khoán được chấp nhận ký quỹ để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán giao dịch CKPS của bên có nghĩa vụ.
Tài khoản ký quỹ là tài khoản được mở cho nhà đầu tư, thành viên bù trừ để quản lý tài sản ký quỹ và tài sản cơ sở để chuyển giao, hạch toán lãi lỗ vị thế hàng ngày và thực hiện hợp đồng.
Ký quỹ ban đầu là việc ký quỹ trước khi thực hiện giao dịch CKPS.
Giá trị ký quỹ duy trì yêu cầu là giá trị ký quỹ tối thiểu mà bên có nghĩa vụ phải duy trì và do VSD tính toán đối với số CKPS trên một tài khoản giao dịch.
Chứng khoán được làm tài sản ký quỹ gồm: TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh ngoại trừ tín phiếu Kho bạc; Chứng khoán niêm yết tại SGDCK (cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư ngoại trừ chứng chỉ quỹ ETF) và thuộc danh sách tài sản ký quỹ do VSD quy định.
Tỷ lệ ký quỹ bằng tiền là tỷ lệ giữa giá trị tài sản ký quỹ bằng tiền so với tổng giá trị tài sản phải ký quỹ.
Giá trị tài sản ký quỹ bao gồm số dư trên tài khoản tiền gửi ký quỹ và giá trị danh mục chứng khoán ký quỹ được xác định theo giá thị trường và tỷ lệ chiết khấu theo quy chế của VSD.
Tỷ lệ sử dụng tài sản ký quỹ là tỷ lệ giữa giá trị ký quỹ duy trì yêu cầu với tổng giá trị tài sản ký quỹ hợp lệ.
Quỹ bù trừ là quỹ hình thành từ các khoản đóng góp của thành viên bù trừ với mục đích bồi thường thiệt hại và hoàn tất các giao dịch CKPS đứng tên thành viên bù trừ trong trường hợp thành viên bù trừ, nhà đầu tư mất khả năng thanh toán.
Bù trừ là quá trình xác định vị thế ròng để tính toán nghĩa vụ tài chính của các bên tham gia giao dịch.
Thế vị là việc giao dịch gốc giữa các thành viên bù trừ bên bán và bên mua sẽ được thay thế bằng giao dịch giữa TVBT bên bán với VSD và giao dịch giữa VSD với TVBT bên mua. Sau khi thế vị, VSD sẽ trở thành đối tác bù trừ trung tâm của các TVBT bên mua và bên bán.
Giao dịch đối ứng là việc mở một vị thế mua (hoặc bán) mới nhằm làm giảm vị thế bán (hoặc mua) đã mở trước đó.
Tài khoản giao dịch tổng là tài khoản giao dịch của nhà đầu tư mà các vị thế mua và bán của cùng một HĐTL (có cùng tài sản cơ sở và cùng tháng đáo hạn) được mở và duy trì cho đến khi TVBT có đề nghị thực hiện đối trừ trên cơ sở thỏa thuận hoặc yêu cầu của nhà đầu tư./.
Nguồn: vietstock.vn